Một thuốc chống buồn nôn sử dụng cho phụ nữ có thai trong thập niên 60, 70 có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng

Ngày 13/03/2023

 -  444 Lượt xem

Buồn nôn là triệu chứng thường gặp ở PNCT. Ảnh: Internet

 

Dicyclomine là thuốc kháng cholinergic được sử dụng để điều trị các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích.. Thuốc làm giảm co thắt cơ trong đường tiêu hóa bằng cách ngăn chặn tác  động của acetylcholine, một chất tự nhiên trong cơ thể.

 

Theo một nghiên cứu của các nhà nghiên cứu tại UTHealth Houston, một loại thuốc chống buồn nôn thường được PNCT sử dụng trong những năm 1960 và 1970 đã được chứng minh là làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng ở con cái trưởng thành.

 

Nghiên cứu do Caitlin Murphy, Ph.D., MPH, phó giáo sư tại Trường Y tế Công cộng UTHealth Houston và cộng sự, đã được công bố hôm nay trên JNCI Cancer Spectrum.

 

Tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng đang gia tăng ở những người trưởng thành sinh vào và sau những năm 1960, Murphy cho biết điều này cho thấy việc phơi nhiễm liên quan đến mang thai được coi là yếu tố rủi ro vào thời điểm đó. Dicyclomine (Bendectin) được sử dụng để điều trị co thắt do hội chứng ruột kích thích, một loại thuốc được kê đơn cho PNCT thai vào những năm 1960 để ngăn buồn nôn và nôn.

 

Murphy, tác giả đầu tiên của nghiên cứu cho biết: “Phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng các giai đoạn phát triển của thai nhi bao gồm cả tử cung – có thể ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư trong nhiều thập kỷ sau đó. "Có tới 25% phụ nữ mang thai đã được kê đơn Bendectin cho đến giữa những năm 1970 và có thể có những hậu quả lâu dài đối với thế hệ con cháu tiếp tục cho đến ngày nay."

 

Các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu từ Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển Trẻ em, một nghiên cứu đoàn hệ nhiều thế hệ đã thu nhận hơn 14.500 phụ nữ mang thai (sinh 18.751 con) ở Oakland, California, từ năm 1959 đến 1967. Thông qua hồ sơ y tế, họ xác định rằng khoảng 5% con cái, hoặc 1.014 đứa trẻ, đã tiếp xúc với Bendectin trong tử cung.

 

Trên 10.000 con, tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng ở những thai nhi tiếp xúc với Bendectin cao gấp ba lần so với những thai nhi không tiếp xúc.

 

Murphy tin rằng nguy cơ ung thư đại trực tràng cao hơn ở những đứa trẻ tiếp xúc với thuốc có thể do dicyclomine, chất có trong công thức của Bendectin được sử dụng trong những năm 1960. Bà cho biết người ta nghi ngờ rằng dicyclomine có thể xâm nhập trực tiếp vào đường tiêu hóa đang phát triển của thai nhi, đồng thời cho biết thêm rằng một số nghiên cứu cho thấy trẻ sinh ra từ những phụ nữ dùng Bendectin trong thời kỳ mang thai có nhiều khả năng bị dị tật bẩm sinh đường tiêu hóa.

 

Sau các báo cáo về dị tật bẩm sinh và những lo ngại sau "Thảm kịch thalidomide", nhà sản xuất đã loại bỏ dicyclomine khỏi công thức của thuốc vào năm 1976. Phụ nữ mang thai vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960 được kê một loại thuốc có chứa thalidomide để giảm ốm nghén, dẫn đến tình trạng ốm nghén. Đau xót  khi hơn 10.000 đứa con chào đời với hàng loạt dị tật nặng nề.

 

Tuy nhiên, Murphy cho biết các nghiên cứu thử nghiệm là cần thiết để làm rõ những phát hiện này và xác định cơ chế rủi ro.

 

"Dicyclomine vẫn được sử dụng trong thực hành lâm sàng để điều trị hội chứng ruột kích thích. Thuốc này  được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ xếp vào loại B khi mang thai, nghĩa là không có nghiên cứu đầy đủ về phụ nữ mang thai để xác định nguy cơ đối với thai nhi", bà nói. "Các loại thuốc được kê cho phụ nữ mang thai có thể góp phần làm tăng tỷ lệ ung thư ở những đứa trẻ tiếp xúc trong bụng mẹ."

 

DS. Bành Đức Hòa

Nguồn: Medicalxpress

https://medicalxpress.com/news/2023-03-prenatal-exposure-anti-nausea-drug-60s.html